Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

Cuộc đời của con cùng đọc lại người Đông Sơn.

Người Đông Sơn cách đây hơn 2. Ngoài những thuyền độc mộc có tính cá nhân và gia đình, tức là cỡ nhỏ và vừa, thì có lẽ người Đông Sơn có những con thuyền rất lớn.

Trong các thị tộc Đông Sơn, theo những gì được mô phỏng lại, thì nó cũng rưa rứa như buôn làng Tây Nguyên, và làng của người Cà Tu cũng là một loại dấu ấn như vậy.

Đông Sơn có lẽ chưa có quốc gia, mà cũng lắm chỉ có liên minh các bộ lạc, mỗi bộ lạc có dân số, đất đai, chiến binh riêng ở quy mô nhỏ từ vài trăm đến vài ngàn người. Thời đại Đông Sơn đã qua từ lâu nhưng những gì nó để lại cho thấy một nền văn minh rất hoàn chỉnh và có trình độ kỹ thuật đúc kim loại rất cao, cũng như sự phong phú về văn hóa khi dùng phổ thông vật liệu đồng chế tạo đồ vật.

Toàn bộ các trống đồng đều có hình tượng quạ dưới dạng ngôi sao từ 12 đến 16 cánh nằm ở trọng điểm, các vòng hoa văn khác đồng tâm bao bọc lấy kim ô và quay ngược chiều kim đồng hồ. Tín ngưỡng tiền sử Đông Sơn không đến nỗi phức tạp và nó gắn với nhiều sắc tộc Đông Nam Á đến tận hiện tại. Người ta cũng làm nhà, và nhà cũng làm dưới dạng một con thuyền lớn, nhưng đa số thời gian họ sống trên những con thuyền độc mộc dài, nay đây mai đó săn bắn và đánh cá.

Vết tích rõ nhất lại nằm trong hệ tiếng nói Nam Á thấy được trong tất tật các ngôn ngữ từ Hoa Nam trở xuống Đông Nam Á. Thành thử mộ táng là quan yếu, sống sao chết vậy, cái gì của người đã khuất nên để cho anh ta đem theo cùng. Người Đông Sơn lúc đó cốt yếu săn bắt chim thú và hải sản, có manh nha chăn nuôi lợn và chó, cũng có lưỡi cày nhưng có nhẽ là lưỡi cuốc thì đúng hơn và đương nhiên chưa có vụ mùa theo sự tuần hoàn của dữ và Mặt Trăng theo âm dương lịch.

Con người sinh ra rồi đi về đâu, có đời sống sau cái chết hay không là những câu hỏi lớn, chưa bao giờ có lời đáp. Người Đông Sơn được coi là dân đi biển sống ở các khu vực giáp giới giữa đầm lầy ven biển và rừng rậm, do đó mà săn bắn và sử dụng thuyền là hai nét đặc trưng dễ thấy trong văn minh Đông Sơn.

Từ giờ chúng ta ở rìa mái nhà Chúng ta ở trên cao, trên mái nhà Hãy thổi lên, gió của biển cả Đưa chúng tôi lên khỏi mặt đất Hãy chèo đi những con chim có bộ lông óng ánh Những con chim ưng kia hãy nắm vững bơi chèo Cầu vồng là xe của chúng tôi…  (Bài ca chiêu hồn của người Toradja ở đảo Célébes, một nghi thức can dự đến trống đồng)    Con thuyền Việt Khê – ngôi mộ của một chủ nhân Đông Sơn chứng tỏ việc chôn một lần rất phổ biến.

Khi xem tranh của các họa sỹ Indonesia, chúng tôi thấy họ luôn tưởng tượng về một cuộc sống hoang dại thời kỳ tiền sử như thế nào.

Những thuyền này dùng để tiến hành các cuộc đi biển dài và tiến hành chiến tranh với các bộ lạc khác. Ở một quan điểm khác, nông nghiệp là bước thụt lùi của tầng lớp loài người khi nó làm mất tính tự nhiên trong quan hệ với thiên nhiên sơ khai, làm biến đổi rất nhiều giống nguyên sinh và dẫn loài người đến một thời gian dài phát triển bê trệ.

Cho đến tận nửa sau thế kỷ 20, sông ngòi đầm hồ Việt Nam vẫn rất nhiều tôm cá, đất đai ẩm ướt, bất cứ cỏ cây nào cũng dễ dàng sinh trưởng, còn đến đầu thế kỷ 20, chim thú hoang vẫn còn nhiều trong rừng. Sự khiếp sợ vong linh là có thật và dẫn đến những tín ngưỡng bỏ mả sơ khai, chia của cho người chết. Tang ma là lễ thức lớn nhất không dành cho cuộc sống mà dành cho cái chết, nhưng qua nó và những đồ vật liên hệ đến nó, người ta đoán định ra những quan niệm về con người, trời đất và những gì thuộc về đời sống linh tính.

Ở làng của người Cà Tu, cả thảy các ngôi nhà đều xếp theo hình ô van, giống như một sân bóng đá, trong đó trung tâm là nhà Gươl – nhà cộng đồng đẹp nhất, được chạm khắc cầu kỳ. Cuộc sống của con người Đông Sơn là bước đệm điển hình của xã hội hoang sơ tiền sử tiến lên một tầng lớp có tổ chức cộng đồng làng bản, có những tín ngưỡng riêng, nhưng không hề có một hệ tư tưởng nào chi phối nhất nhất, như các hệ tư tưởng Ấn Độ và Trung Hoa ảnh hưởng đến châu Á.

Chúng tôi gọi đó là ngôi nhà cái, còn ngôi nhà mái tròn là ngôi nhà đực. May mắn thay, thời Đông Sơn, người ta chưa nghĩ đến một thứ nghệ thuật thuần túy bay bổng đến như vậy, nó gắn với tôn giáo và gắn với quan niệm tâm linh đương thời, nguyên tố gì không có thực thì chính là đời sống huyền thoại sinh ra từ văn minh Đông Sơn mà thôi.

Càng ở cuối thời kỳ Đông Sơn, vũ khí càng được trang trí cầu kỳ, rìu được chạm khắc hoa văn, dao găm thì cán là hình người nam hoặc nữ, điều này chứng tỏ chiến tranh đã giảm dần khi khí giới trở thành vật làm đẹp.

Con thuyền Việt Khê với chủ nhân là một người đàn ông khá cao lớn được đặt chôn giữa lòng thuyền, xung quanh đặt những kỷ vật của ông, nói chuẩn xác là gia tài ông mang theo sang thế giới bên kia, gồm nhiều đồ trang sức, rìu, dao, kiếm, thạp - phần nhiều đều bằng đồng.

Nó cho thấy những quan niệm chung và những tính cách riêng hình thành trong quá trình lịch sử khác nhau của một vùng, và sau này thì hồ hết các dân tộc từ Hoa Nam đến Nam Á đều có đặc điểm chung là phát triển nông nghiệp canh tác lúa nước, mặc dầu trống đồng ban đầu không có diễn đạt gì của một từng lớp canh tác lúa nước.

Hoặc họ đánh từ xa, bắn cung tên, ném lao, hoặc áp sát giáp lá cà thì dùng dao găm, kiếm ngắn và rìu. Ở miền Nam tình hình cũng như vậy với người Chàm và các sắc tộc Tây Nguyên, một đằng nhập khẩu Phật giáo và trở nên những tiểu quốc có nền văn hóa cao, trong khi các sắc tộc miền núi vẫn bảo lưu lối sống buôn làng cổ xưa với kinh tế tự nhiên cho đến tận gần đây.

Một con thuyền được sử dụng làm mộ táng với bộ xương người và các đồ vật mang theo là bằng cớ rất quan trọng có tính thực tại, nhưng hình ảnh những con thuyền khắc trên trống đồng cũng quan trọng không kém và cho thấy nhiều mặt hơn con thuyền có thật. Sự xuất hiện của các trống đồng minh khí (dạng nhỏ chôn theo người chết) cho thấy tín ngưỡng vong hồn hình thành khá vững chắc, nhưng nó cũng bắt đầu mô tả sự hiềm nghi dẫn đến hình thức chôn của tượng trưng, tức thị đồ minh khí, gần giống như đồ thật.

Nhưng tục thờ và đánh trống đồng, đúc trống đồng còn diễn ra cho đến tận thế kỷ 11, và nó chính thức chuyển thành một nhạc khí quan yếu trong lễ nghi triều đình và dân gian. Thạp đồng Đào Thịnh là một nghi vấn khác – người ta có thể đặt người chết theo phong thái ngồi vào lòng thạp, vì chúng khá lớn.

Điệu múa đi vòng tròn này cũng được các họa sỹ Indonesia biểu thị lại trong các bức họa tập tục. 500 ở Đông Nam Á, nhưng thực ra cho đến tận thế kỷ 19, lối sống đó vẫn còn thấy không ít ở nhiều làng mạc cư dân Đông Nam Á, như là sự duy trì lối sống thiên nhiên với cộng đồng làng bản không chuyển sang chế độ phong kiến và cũng không biết gì về sự sở hữu của chủ nghĩa tư bản.

Điệu múa đi vòng tròn quanh nhà mồ, hay cột kut còn lưu lại trong lễ hội và tang ma Tây Nguyên của người Bana và Giarai.

Cư dân Đông Sơn lúc đó chưa có nông nghiệp theo đúng tức thị vụ mùa và chăn nuôi các gia súc cơ bản – ngựa, trâu, bò, cừu, dê. Ví dụ tiêu biểu là người Việt và người Mường, vốn có chung một cội nguồn, nhóm Việt (Kinh) đã đi xuống đồng bằng, phát triển nông nghiệp và du nhập Tam giáo (Nho - Lão - Phật), trong khi người Mường vẫn bán canh tác nông nghiệp và dựa vào kinh tế tự nhiên với rừng, và chỉ có tín ngưỡng Mo đơn giản.

Qua những di vật Đông Sơn, thấy rõ nhất những tín ngưỡng thờ thần ác vàng, thờ vong linh và sùng bái sự phồn thực.

Nhà rông, nhà Gươl, đặc biệt nhà mồ Tây Nguyên, không thiếu những dấu ấn của động vật biển, một ký ức đã đi vào tiềm thức của các bộ tộc vốn sống ven biển chuyển lên núi. Đó là cuộc sống của những bộ lạc sống ven biển, một bên là núi rừng, họ đi thuyền độc mộc, săn bắn chim thú và hải sản, có những điệu múa vòng tròn quanh đống lửa bên những căn lều và những ngôi nhà sàn mái cong trong cộng đồng thị tộc.

Khi chết đi, con thuyền chính là nấm mồ của họ. Tuy nhiên đời sống thường ngày không phải cái gì cũng tồn tại được, chúng may mắn nếu được ghi chép bằng sử sách hoặc vẽ nặn lại bằng điêu khắc và hội họa.

Đối với các nhà lịch sử và khảo cổ, cuộc sống mới thoát thai từ tình trạng nguyên thủy đó, cách đây từ 3. Con thuyền Việt Khê, thạp đồng Đào Thịnh, trống đồng Ngọc Lũ là di vật quan yếu của nền văn minh Đông Sơn, quơ đều liên tưởng đến tang ma cả, buộc chúng ta phải bắt đầu từ đấy.

Có lẽ lúc đó người ta chẳng thể nuôi được tù binh, nên đem những người bị bắt ra tế lễ. Đôi khi trong tế lễ, họ cắm những chiếc lông chim dài lên đầu, nên tuốt đều cao chất ngất, đi quanh quéo đống lửa, đánh trống đồng và múa.

Việc xuất hiện nông nghiệp muộn mà vẫn duy trì kinh tế thiên nhiên không tả sự chậm phát triển mà cho thấy sản vật tự nhiên Đông Nam Á thời cổ quá giầu có, không khăng khăng con người phải canh tác vụ mùa đều đặn. Nhưng kho mộ chum Sa Huỳnh cho thấy một lối tang ma khác, mà có thể là hai cách: hoặc hỏa thiêu rồi đưa tro hài vào mộ chum, hoặc cất mộ sau một thời gian rồi xếp xương vào mộ chum.

Một đôi dân tộc phát triển tiếp cận các hệ tư tưởng lớn ở châu Á như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo, Đạo giáo chính thức chấm dứt tầng lớp thị tộc thái cổ. Cả nam lẫn nữ đều xăm trổ những hình chim thú và giao long.

Cảnh giết tù binh ngay trên con thuyền rất phổ biến. Cung tên, giáo dài, rìu các loại, áo giáp thì chỉ có tấm hộ tâm kính che ngực và vòng chân vòng tay cỡ lớn, vừa trang sức vừa dùng đỡ gươm giáo trong những cuộc đấu áp sát. 500 năm, con người hà cớ gì phải làm nông nghiệp, như văn minh Trung Hoa chẳng hạn, nơi mà dân số quá đông, tỉnh thành cổ phát triển, con người đã thuần hóa được nhiều thú hoang và giống cây trồng cho bốn mùa xuân hạ thu đông, rồi khoanh mình trong một quốc gia phong kiến đầy lễ thức cứng nhắc! Hình ảnh tự do của con người Đông Sơn hoàn toàn xa lạ với mô hình phong kiến như vậy, cộng đồng buôn làng thì chẳng thể trở thành quốc gia tập quyền với quân đội mạnh như các vua phong kiến.

Cũng những vòng chim thú hoa văn khác, toàn bộ các vòng tròn được xếp theo ngược chiều kim đồng hồ, điều này cho thấy có thể trống đồng là một loại nhạc khí tang ma, khi cầu hồn, tiễn hồn, người ta đưa hồn về phía kim ô lặn.

Song nếu nghệ thuật mang tính khoa trương và dáng bộ thì sự đoán định sẽ không xác thực. Kim ô là nguồn soi rọi, là quyền lực, cảm thức về tuần hoàn ban sơ, cũng được đồng nhất với khái niệm trời – giàng (dương) nói chung. Hình ảnh những ngôi nhà trên trống đồng với hai loại mái hình thuyền và hình tròn như cái thúng úp hiện có thể thấy ở Indonesia, đặc biệt là ngôi nhà hình thuyền với mái cong đua ra hai phía đầu hồi.

Trống đồng với những vòng tròn trang hoàng là đúc kết của nghi lễ vòng tròn đó. Tuốt luốt nói lên khát vọng sinh sôi nảy nở và rốt cục cụ thể hơn là sùng bái sinh thực khí. Vậy thì cách đây 2. Buôn làng cộng đồng của người Đông Sơn có thể cũng như vậy, và trên thực tiễn nó được mô phỏng trên hình khắc trống đồng. Tất thảy vũ khí Đông Sơn cũng cho thấy nó được dùng trong chiến tranh trên sông nước là chính.

Trong cái buôn làng này có người giã gạo, đánh trống đồng, nhảy múa, người trong nhà và người dưới đất. 000 – 2. Người tiền sử dễ dàng tin vào vạn vật hữu linh, người ta chết là một hành trình quay lại với bản thể hoặc lên thế giới cực lạc bên kia nào đó, hoặc là thế giới linh hồn có tác động xấu hay tốt đối với người đang sống.

Người ta cho rằng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước dĩ nhiên phải tôn sùng dữ, trên thực tế thì bất luận là dân nông nghiệp hay săn bắn, phần đông đều thờ thần quạ cả. Tín ngưỡng phồn thực là kết quả của một từng lớp sinh nhiều nuôi ít và nhu cầu tăng lực lượng lao động và chiến binh.

Tập tục sống trên thuyền vẫn được người Việt ưa thích cho đến thế kỷ 17 – 18, theo quan sát của các thương gia phương Tây, nhưng chôn bằng con thuyền quá tốn kém và không còn là tập tục nữa.

Có trồng tỉa, thu gom và có nền nông nghiệp là hoàn toàn khác nhau. Chiến tranh nhỏ xảy ra liên hồi, nhưng hòa bình cũng dễ dàng được thỏa thuận trong cái nền văn hóa trống đồng chung nhất. Đông Sơn có thể là thời khắc chung cuộc của các sự phân chia đó.

Thỉnh thoảng khái niệm văn minh cần dòm lại, và cho đến nay, người ta nhận thấy lối sống của các thổ dân duy trì sự bền vững của con người với tự nhiên hơn cả, mặc dù hình thức bên ngoài của lối sống ấy bị coi là lạc hậu, thậm chí là mọi, hoang dã. Những hình/tượng người trên cán dao găm và đồ trang sức đã cho thấy hình ảnh con người thời đó như thế nào.

000 năm sống trên một địa bàn rộng, có lẽ từ phía nam Trung Quốc đến các vùng đa đảo ở Indonesia, vào thời đó, vùng này đầm lầy xen kẽ các con sông cổ, mặt đông giáp biển, mặt tây với nhiều khu rừng nguyên sinh trên các dãy núi cao. Đó là những con người – chiến binh, rất tầm vóc, cân đối: nữ quấn khăn đầu, ngực trần và quấn váy, tai đeo những khuyên lớn; nam đóng khố, mình trần, tay đeo vòng như ống che cổ tay dài tới 15 phân, chân đeo vòng thố có những lục lạc lớn, thắt lưng bằng khóa đồng có hình cóc để giắt dao kiếm rất đẹp.

Sau này, những thạp gốm hoa nâu Lý - Trần cũng làm nhiệm vụ y như vậy, cũng có hai chiếc lồng vào nhau như mộ chum Sa Huỳnh, chiếc trong dùng đựng di hài người chết. Những tượng cóc chồng lên nhau giao hợp được gắn lên mặt trống đồng, tượng nam nữ giao hợp được gắn lên nắp thạp đồng Đào Thịnh.

Trống đồng đã có trong truyền thuyết và sinh hoạt tín ngưỡng của người H’mong, người Dao, người Mường, người Thái, người Choang, người Lê (ở đảo Hải Nam), người Malai, người Indonesia, người Tây Nguyên… và hẳn nhiên là người Việt.

Những hình khắc thuyền trên thạp đồng Đào Thịnh và trống đồng cho thấy mỗi thuyền là một đội quân, thuyền có cả nhà thuyền và vọng lâu.

Bài ca chiêu hồn của người Toradja ở đảo Célébes [tên gọi trước đây của đảo Sulawesi, Indonesia] mà chúng tôi dẫn đề từ trên là một khái cảm của những sắc tộc tôn thờ trống đồng.

Ắt các cư dân Đông Nam Á và Nam Trung Hoa đều có liên tưởng nào đó với trống đồng và với văn minh Đông Sơn cho đến tận hiện tại.

Dấu ấn của hai loại kiến trúc này cũng thấy trong quần thể tháp Chàm Po Klong Garai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét