Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Tiên phong Khuyến khích những giải pháp phục hồi hệ sinh thái rừng.

Tâm   Một số điển hình bình phục HST rừng điển hình của Việt Nam trong thời kì qua là: bình phục HST rừng ở Mã Đà (tỉnh Đồng Nai), phục hồi HST rừng ngập mặn Cần Giờ, hay phục hồi rừng bảo vệ môi trường trên vùng hà khắc có nguy cơ sa mạc hóa tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận…

Khuyến khích những giải pháp phục hồi hệ sinh thái rừng

Sự suy giảm chóng vánh các diện tích rừng cũng đồng nghĩa với việc giảm những bể chứa cacbon tại các khu rừng nhiệt đới, làm tăng các chất khí nhà kính chuẩn y quá trình chuyển đổi dùng đất.

Trước xu thế đó, vấn đề cần thiết đặt ra không chỉ với Việt Nam là phải xúc tiến quá trình hồi phục các HST rừng.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng đó mới chỉ là bước trước tiên trong việc hồi phục HST rừng và những khu rừng này chỉ đáp ứng được những chức năng cơ bản của rừng, tạo ra được sản phẩm nâng cao thu nhập cho người dân, chứ chưa phát huy được vai trò nhiều trong điều hòa khí hậu nói chung cũng như giảm thiểu các tác hại của thiên nhiên như lũ lụt, trượt lở, tiếp thu các khí có khả năng gây ô nhiễm môi trường nói riêng.

Dự án được phát động từ tháng 9/2010 và chấm dứt vào tháng 12/2012, không chỉ tổng hợp và vận dụng các kỹ thuật tốt nhất trong hồi phục, quản lý rừng vững bền mà còn thí nghiệm phục hồi và quản lý rừng cho hai cộng đồng dân tộc thiểu số ở hai huyện của tỉnh Phú Thọ. Chỉ tính riêng trong khuôn khổ Chương trình 661/5 triệu ha rừng thời đoạn 1998-2010, đã có 2,45 triệu ha rừng được trồng mới và 0,9 triệu ha được khoanh nuôi tái sinh rừng….

Với những nỗ lực đó, đến hết năm 2012, tổng diện tích rừng của Việt Nam đạt 13. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp lý quan trọng như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Chiến lược bảo vệ môi trường nhà nước đến năm 2020, tầm nhìn 2030… để định hướng cho công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học.

Kết quả: 100 ha rừng thứ sinh suy thoái nghiêm trọng đã được làm giàu bằng việc trồng 6 loài cây lâm thổ sản ngoài gỗ và 5 loài cây gỗ bản địa.

Một trong những dự án điển hình được nhắc tới là “Trình diễn năng lực bình phục rừng và quản lý rừng bền vững ở Việt Nam” do màng lưới phục hồi và quản lý rừng bền vững châu Á - thái hoà Dương (APFNet) tài trợ 499. Chính nên, ngay từ năm 1995, nhiều chương trình trồng rừng đã được thực hành, đặc biệt là Chương trình 661/5 triệu ha rừng.

Với đà phát triển này, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020 nâng độ che phủ rừng lên 47%. T. 862. /. 043ha, tỷ lệ che phủ đạt 40,7%.

Một số điển hình phục hồi HST rừng tiêu biểu của Việt Nam trong thời kì qua là: bình phục HST rừng ở Mã Đà (tỉnh Đồng Nai), phục hồi HST rừng ngập mặn Cần Giờ, hay phục hồi rừng bảo vệ môi trường trên vùng khắc nghiệt có nguy cơ sa mạc hóa tại 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận….

Tác động đáng kể gây BĐKH toàn cầu. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đã triển khai nhiều dự án về phục hồi và quản lý rừng.

Để tiếp kiến xúc tiến tiến trình phát triển, bảo vệ, dùng hợp lý tài nguyên tự nhiên, bảo tàng đa dạng sinh vật học và đối phó với BĐKH, ông Võ Thanh Sơn, trọng điểm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường cho biết, trong thời gian tới, một mặt cần đấu phủ xanh những vùng đất bị suy thoái, mặt khác cần khuyến khích những giải pháp hồi phục HST rừng, đặc biệt là trồng rừng với các loài bản địa để tăng giá trị đa dạng sinh học, song song đẩy mạnh công tác bảo tồn trong hệ thống các vườn nhà nước và khu bảo tồn.

Các cây gỗ và lâm thổ sản ngoài gỗ trong các mô hình đều sinh trưởng tốt và hẹn cung cấp giá trị kinh tế cao; người dân địa phương được giới thiệu và học tập những kỹ thuật chăm nom rừng tốt nhất. Và cũng theo tính tình của các chuyên gia thì trong các loại rừng ở Việt Nam giờ, rừng giàu mới chỉ chiếm 5%, rừng nhàng nhàng chiếm 15%, 80% diện tích rừng còn lại đẵn là rừng sinh thái hoặc rừng trồng mới, mang lại ít giá trị đa dạng sinh vật học cũng như dịch vụ HST.

Rừng ngập mặn Cần Giờ     Những năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng diện tích rừng, từ độ che phủ vào khoảng 70% đầu thế kỷ XX xuống còn 43% vào giữa thế kỷ và xuống thấp nhất vào giai đoạn đầu thập niên 90 của thế kỷ trước khi diện tích rừng chỉ còn khoảng 28%. 750 USD.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét